Theo thống kê trên thế giới, nguyên nhân hiếm muộn do chồng chiếm 40-50%. Trong đó hơn 90% là do giảm số lượng và chất lượng tinh trùng. Ở VN hiện có 10 trung tâm thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm - đều có đủ điều kiện thành lập ngân hàng tinh trùng.
Nghiện rượu, bia cũng có thể là một nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng và số lượng tinh trùng -Ảnh: N.C.T.
Các ngân hàng tinh trùng lớn là BV Từ Dũ, BV Phụ sản trung ương, Trung tâm Công nghệ phôi thuộc Học viện Quân y…
Qua các báo cáo tại hội nghị khoa học thường niên về thụ tinh trong ống nghiệm do Hội Nội tiết sinh sản và vô sinh TP.HCM tổ chức, hiện nay chỉ có Trung tâm Công nghệ phôi thực hiện nuôi cấy tinh tử và tiêm tinh tử vào trứng để tạo phôi.
Từ năm 1998 đến nay, trên thế giới cũng có nhiều báo cáo thành công tiêm tinh tử đã kéo dài vào trứng để tạo phôi. Ở châu Á cũng có một số báo cáo tương tự. Tuy nhiên, rất ít trung tâm hiện còn tiếp tục thực hiện kỹ thuật này vì tỉ lệ thành công không cao, do tỉ lệ thụ tinh thấp và tỉ lệ có thai cũng thấp. Tôi nghĩ đó là lý do mà nhiều trung tâm ở VN không phát triển theo hướng này.
Do đó, việc thành công với kỹ thuật nuôi cấy tinh tử và tiêm tinh tử kéo dài để tạo phôi là một nỗ lực và thành công lớn của Trung tâm Công nghệ phôi. Đề tài nghiên cứu này cần được nghiệm thu, báo cáo tại các hội nghị quốc tế hoặc đăng tải trên các tạp chí quốc tế để công bố các thành tựu của y học VN ra thế giới.
Kỹ thuật điều trị vô sinh nam phổ biến nhất hiện nay là ICSI. Việc cải thiện quy trình kỹ thuật trong phác đồ thực hiện ICSI như chuẩn bị trứng, chuẩn bị tinh trùng, kỹ thuật tiêm tinh trùng, quy trình nuôi cấy phôi giúp tăng tỉ lệ thành công rất nhiều. Tỉ lệ thành công của ICSI hiện nay tại Bệnh viện Vạn Hạnh là trên 40%, có lúc đạt 50% (so với tỉ lệ trung bình trước đây là 35%). Gần đây đề tài phối hợp giữa Trung tâm IVF Vạn Hạnh và BV Bình Dân trong nghiên cứu trữ lạnh mô tinh hoàn đã đạt được kết quả bước đầu khá tốt. Đây là nghiên cứu trữ lạnh mô tinh hoàn đầu tiên ở VN. Chúng tôi sẽ công bố kết quả trong thời gian tới.
Người bệnh ung thư vẫn có con
Hiện nay bệnh ung thư ngày càng được phát hiện sớm, điều trị ngày càng hiệu quả. Tỉ lệ sống sau điều trị càng cao và thời gian sống thêm cũng tăng. Do đó chất lượng sống và khả năng sinh sản của những bệnh nhân sau điều trị ung thư cần được quan tâm.
Với nam giới, hầu hết các phác đồ điều trị ung thư có tác động bất lợi đến quá trình sản xuất tinh trùng : có thể không hồi phục hoặc chỉ hồi phục một phần sau khi điều trị ung thư. Do đó nên tư vấn về việc trữ tinh trùng nếu tiên lượng điều trị ung thư là khả quan và bệnh nhân có nhu cầu có con sau điều trị ung thư. Việc này hiện rất phổ biến ở nhiều nước trên thế giới. Tuy nhiên, việc tư vấn về khả năng sinh sản cho bệnh nhân ung thư ít được đề cập ở VN.
Tinh trùng có thể được đông lạnh và lưu trữ an toàn trong nhiều năm. Báo cáo ghi nhận thời gian lưu trữ tinh trùng thành công lâu nhất là hơn 25 năm. Chất lượng tinh trùng thường giảm khoảng 30-40% sau trữ lạnh. Tuy nhiên, vì không cần có thật nhiều tinh trùng để có thể thụ thai nên điều này ít có ảnh hưởng đến tỉ lệ thành công của các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.
Trùng huyết thống: hi hữu
Các quy định liên quan đến hiến - nhận tinh trùng ở VN tương đối tốt. Việc một người có thể cho tinh trùng ở nhiều nơi (mỗi nơi một lần) là có thể xảy ra. Tuy nhiên sẽ không phổ biến và không gây tác hại gì lớn cho xã hội. Có thể mở rộng thêm quy định về cho tinh trùng hữu danh (giữa anh em, bà con, bạn bè…), nghĩa là người cho và người nhận biết nhau và có cam kết bằng văn bản (như hiến - nhận trứng) để đáp ứng nhu cầu của một bộ phận người dân.
Quy định vô danh trong hiến - nhận tinh trùng có tạo một số quan ngại về việc cùng huyết thống của các trẻ về sau này. Đây là cơ sở để luật quy định mỗi người chỉ cho tinh trùng một lần. Tuy nhiên, vấn đề này thật sự không lớn do VN có dân số rất lớn, gần 90 triệu nên xác suất trùng huyết thống sau này là rất thấp. Đó là do số người hiến tặng tinh trùng rất ít so với dân số; không phải mẫu tinh trùng hiến tặng nào cũng sẽ thành công và có thai ; thật sự trong xã hội hiện nay, dù không có thống kê, chúng ta cũng dễ dàng hiểu rằng số nam giới có con với nhiều phụ nữ khác nhau và những đứa trẻ này không biết nhau, lớn hơn nhiều so với số người hiến tặng tinh trùng. Dù vậy việc vợ chồng trùng huyết thống là rất hi hữu.
Do các nguyên nhân trên, ở các nước khác có quy định thoáng hơn ở VN:
Ths. BS HỒ MẠNH TƯỜNG
(Hội Nội tiết sinh sản và vô sinh TP.HCM)
Quinter Central Nha Trang, chiều thứ bảy 11.1.2025 (13:00 - 17:00)
Thành phố Hạ Long, Thứ Bảy ngày 22 . 3 . 2025
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...